Thứ Hai, 2 tháng 8, 2010

PHAT AM TIENG HOA

Phát âm tiếng Trung Quốc
By Nguyễn Đức Hùng
Quỹ Nghiên Cứu Biển Đông www.seasfoundation.org


Tổng quan


Chữ Hán là chữ tượng hình, nghĩa là chữ viết biểu diễn nghĩa bằng hình, không giống như chữ viết tượng thanh theo các hệ chữ viết dùng chữ cái La Tinh. Khi phát âm, mỗi chữ Hán được phát một âm tiết (a syllable) và cũng giống như tiếng Việt một âm tiết trong tiếng Hán thường được ghép bởi một phụ âm và một nguyên âm và một phụ âm cuối. Lưu ý rằng cũng có những âm tiết chỉ có nguyên âm và phụ âm cuối hoặc chỉ có phụ âm đầu và nguyên âm, hoặc chỉ có nguyên âm.
Một đặc điểm của tiếng Hán là tồn tại rất nhiều từ đồng âm dị nghĩa (nghĩa là các từ có cùng phát âm nhưng nghĩa khác nhau). Tiếng Hán-Việt dùng ở Việt Nam là tiếng Hán cổ (được cho rằng là tiếng Hán vào thời điểm Việt Nam thoát khỏi thời kỳ bắc thuộc, tức vào khoảng thế kỷ thứ 9-10) và được phiên âm theo lối phát âm của người Việt Nam và được Việt hóa qua nhiều thế kỷ nên có phát âm hoàn toàn khác với tiếng Hán hiện đại ở Trung Quốc. Có lẽ cũng vì do đặc điểm của tiếng Hán Việt có nhiều từ cùng âm khác nghĩa nên ở Việt Nam thường ám chỉ các cụ đồ am hiểu tiếng Hán là “thâm như nhà Nho” và có lối “chơi chữ Nho”, nghĩa là nói một chữ nhưng lại ngụ ý nhiều ý khác nhau!
Bài này khái quát một số chú ý về phát âm tiếng Trung Quốc để giúp cho những ai muốn học nghe và nói tiếng Trung Quốc có thể tự mình rèn luyện phát âm và luyện nghe. Còn những ai chỉ học đọc và viết tiếng Hán thì có thể bỏ qua. Bạn đọc quan tâm tới phát âm tiếng Trung Quốc có thể tham khảo các links cho ở dưới hoặc các tài liệu học tiếng Trung khác (ví dụ có bán trên mạng tại Vinabook www.vinabook.com).


1. Hệ thống phiên âm pīnyīn (拼 音 = bính âm) Bắc Kinh
Mỗi một chữ Hán được phát âm bằng một âm tiết. Để ghi âm chữ Hán người ta dùng hệ thống phiên âm. Có nhiều hệ thống phiên âm chữ Hán, hiện nay hệ thống phiên âm pīnyīn (拼 音 = bính âm) của Bắc Kinh được coi là tiêu chuẩn (1). Cách phiên âm pīnyīn dựa vào bảng chữ cái tiếng Anh và được phiên âm sang tiếng Trung như sau:






Hình 1 Bảng chữ cái tiếng Anh phiên âm theo tiếng Trung Quốc


2. Thanh Điệu Tiếng Trung
Giống như tiếng Việt, tiếng Hán cũng có thanh điệu. Theo (1) tiếng Hán có 5 thanh điệu, ký hiệu là: – , / , v , , và .. Ví dụ: âm tiết ma (đọc như ma trong tiếng Việt) gắn thêm thanh điệu sẽ là: mā , má , mǎ , mà , mạ. Trong một số từ điển Hán ngữ và sách giáo khoa dạy Hán ngữ, vì lý do kỹ thuật, người ta thay thế 5 ký hiệu trên bằng các con số: ma1 (= mā ), ma2 (= má ), ma3 (= mǎ ), ma4 (= mà ), ma hay ma5 (= mạ ).


Ví dụ 1: Nghe phát âm ā, á, ǎ và à (xem thêm (2))


Ví dụ 2: (phồn thể (âm Hán Việt, nghĩa )- giản thể - phát âm theo tiếng Trung)


媽 (ma = mẹ) 妈 - mā : đọc như ma (ma quái) trong tiếng Việt.
麻 (ma = cây đay) 麻 - má : đọc như mả (mồ mả ) trong tiếng Việt.
馬 (mã = ngựa) 马 - mǎ : đọc như mạ (mạ non) trong tiếng Việt.
罵 (mạ = mắng) 骂 - mà : đọc như má (ba má, lúa má) trong tiếng Việt.
嗎 (ma = câu hỏi) 吗- mạ (= ma): đọc nhẹ như ma (ma quái) trong tiếng Việt. (Thanh này đọc nhẹ nên gọi là khinh thanh (轻声) 輕 聲 , thường thường được viết không dấu chấm, tức là viết ma thay vì mạ ).


So sánh:
Thanh – tương đương không dấu của tiếng Việt.
Thanh / tương đương dấu hỏi của tiếng Việt.
Thanh v tương đương dấu nặng của tiếng Việt.
Thanh tương đương dấu sắc của tiếng Việt.
Thanh • tương đương không dấu của tiếng Việt, đọc rất nhẹ.
Chú ý quan trọng: Dấu thanh điệu / và không tương ứng dấu sắc / và dấu huyền tiếng Việt. Xin đừng để chúng gây lẫn lộn.


Bạn đọc hãy thử click vào < ma >, để nghe lần lượt 5 âm tiết: ma (đánh vần «mơ - a - ma»), mā , má , mǎ , mà ; (khinh thanh được đọc trước).


Ví dụ 3:
dā hoặc da1 (ví dụ chữ 搭 đáp)
dá hoặc da2 (ví dụ chữ 答 đáp)
dǎ hoặc da3 (ví dụ chữ 打đả)
dà hoặc da4 (ví dụ chữ 大 đại)
dạ hoặc da
Luật biến đổi thanh điệu
(1) Hai thanh v kế nhau, thì thanh v trước biến thành /. Tức là v + v = / + v.


Ví dụ 4:


你好 - nǐ hǎo đọc là ní hǎo (chào anh/chị). 很好 - hěn hǎo đọc là hén hǎo (rất tốt/khoẻ).
永远 (phồn thể: 永遠) - yǒng yuǎn đọc là yóng yuǎn (vĩnh viễn)


(2) Ba thanh v kế nhau, thì hai thanh v trước biến thành /. Tức là v + v + v = / + / + v.


Ví dụ 5:


总理府 (phồn thể: 總理府): zǒng lǐ fǔ đọc là zóng lí fǔ (phủ thủ tướng). 展览馆 (phồn thể: 展覽館): zhǎn lǎn guǎn đọc là zhán lán guǎn (nhà triển lãm).


3. Phụ Âm Đầu (thanh mẫu 聲母)


Theo (1) hệ thống ngữ âm Trung Quốc có 21 phụ âm đầu: b , p , m , f , d , t , n , l , g , k , h , j , q , x , zh , ch , sh , r , z , c , s. Xem chi tiết thêm ở đây.
4. Vần (vận mẫu 韻母)
Theo (1) Hệ thống ngữ âm Trung Quốc có 36 vần. Mỗi vần gồm: nguyên âm (+ phụ âm cuối). Nguyên âm (đơn hoặc kép) bắt buộc phải có; còn phụ âm cuối thì có thể có hoặc không.


36 vần trong hệ thống ngữ âm Trung Quốc là: -a, -o, -e, -er, -ai, -ei, -ao, -ou, -an, -en, -ang, -eng, -ong, -i, -ia, -iao, -ie, -iou, -ian, -in, -iang, -ing, -iong, -u, -ua, -uo, -uai, -uei, -uan, -uen, -uang, -ueng, -ü, -üe, -üan, -ün


Phụ âm đầu và vần kết hợp có chọn lọc, chứ không phải một phụ âm đầu này sẽ kết hợp với tất cả các vần hiện có. Thí dụ: phụ âm đầu b- không hề kết hợp với các vần: -e, -er, -ia, -iou, -iang, -iong, -ua, -uo, -uai, -uei, -uan, -uen, -uang, -ueng, -ü, -üe, -üan, -ün. Hay vần -ueng, chẳng kết hợp với phụ âm đầu nào cả, và nó luôn là âm tiết, được viết hẳn là weng. (w và y không phải là phụ âm; chúng được xem là bán nguyên âm). Vần -er cũng là một âm tiết độc lập, được viết hẳn là er.
Xem chi tiết thêm ở đây.


Phần luyện tập phát âm (xem ở đây, và vào các links trong "Một số links hữu ích").


oOo
Một số links hữu ích
1. Xem video clip phát âm tiếng Trung 汉语拼音字母表.
2. Download phần mềm học phát âm tiếng Trung ở đây.
3. Trang Học Tiếng Hoa
4. Luyện Phát Âm
oOo
Tài liệu tham khảo
(1) Lê Anh Minh. Phát âm Bắc Kinh với phiên âm Pīnyīn.
(2) Chinese Tones.
(còn tiếp)
Đón đọc: Bài học chữ Hán 1)

Chủ Nhật, 1 tháng 8, 2010

HOANG HAC LAU/ LY BACH

66


Lý -Bạch


黃 鶴樓 送 孟 浩 然 之 廣 陵


故 人西 辭 黃 鶴 樓
煙 花 三 月 下 揚州
孤 帆 遠 影 碧 空盡
惟 見 長 江 天 際流






Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng-Lăng


Cố nhân tây từ Hoàng-hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương-châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường-giang thiên tế lưu.






Ở Hoàng Hạc Lâu đưa tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng-Lăng


Tại Lầu Hoàng-Hạc người bạn cố tri của tôi đã từ giã miền tây,
Trong tháng ba hoa xuân đang nở rộ để đi xuống Dương-châu.
Hình ảnh xa xăm của cánh buồm cô đơn hiện ở cuối trời xanh biếc,
Nay chỉ còn thấy dòng Trường-giang xuôi chảy tận chân trời.




8.5.2008
--
"Đông du = Đi Nhật
Tây từ : Từ giã miền Tây => sang phía Đông" (trích nnt)

THO HAN VIET/ SIENG DICH

12 Bài thơ mới dịch xong trong tháng 5 và 6.2008.

76
Đỗ Mục

杜牧
金谷園

繁華事散逐香塵
流水無情草自春
日暮東風怨啼鳥
落花猶似墜樓人

Kim cốc viên
Phồn hoa sự tán trục hương trần
Lưu thủy vô tình thảo tự xuân
Nhật mộ đông phong oán đề điểu
Lạc hoa do tự trụy lâu nhân


Vườn chơi Kim-Cốc
Những sự phú qúy tan dần dần theo đám bụi thơm,
Nước chảy vô tình, cỏ cây (mọc) trong mùa xuân,
Ngày sắp tối gió đông (thổi), chim chóc kêu khóc ai oán,
Hoa rơi tựa như người nhảy lầu (ngày xưa)*

15.06.2008
--
* xem chuyện Lục Châu/ Thạch Sùng

75

Đỗ Mục

杜牧
贈別二首之二

多情卻似總無情
唯覺樽前笑不成
蠟燭有心還惜別
替人垂淚到天明


Tặng biệt nhị thủ chi nhị.

Đa tình khước tự tổng vô tình,
Duy giác tôn tiền tiếu bất thành.
Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt,
Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh.



Tặng lúc chia tay bài thứ hai trong hai bài.

Đa tình lại giống như rất vô tình,
Chỉ biết (ngồi) trước chén rựơu (mà)cười không nổi.
Cây nến sáp có lòng tiếc sự chia tay,
Thay người nhỏ nước mắt đến sáng.

13.6.2008/s.




74.
Đỗ Mục

杜牧
贈別二首之一

娉娉嫋嫋十三餘
豆蔻梢頭二月初
春風十里揚州路
卷上珠簾總不如


Tặng biệt nhị thủ chi nhất.

Phinh phinh niệu niệu thập tam dư,
Đậu khấu sao đầu nhị nguyệt sơ.
Xuân phong thập lí Dương-Châu lộ,
Quyển thượng châu liêm tổng bất như.


Tặng khi chia tay bài thứ nhất trong hai bài,

Dáng dấp (em) xinh xắn mềm mại tuổi mới hơn mười ba,
Như là hoa đậu-khấu nở đầu tháng hai.
Gió xuân (thổi khắp) mười dặm đường (thành phố) Dương-Châu
Những bức rèm châu xếp lên cao, (nhưng) hết thảy không (thấy có ai) giống như nàng.

7.7.2008 Thứ bảy
--

73

Tô Thức

瀑布亭
廬山煙雨浙江潮,
未到千般恨不消;
到得還來無別事,
廬山煙雨浙江潮。

Bộc bố đình
Lô sơn yên vũ Chiết Giang triều ,
Vị đáo thiên bàn hận bất tiêu ;
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự ,
Lô sơn yên vũ Chiết Giang triều .


Đình Bộc-Bố
Khói mưa trên núi Lô-Sơn và nước của sông Chiết-Giang lên xuống,
Chưa đến đó ngàn bực ấy lòng sẽ hận không nguôi.
Khi đến được rồi trỡ lại, thấy không phải là việc khác gì,
Khói tỏa trên núi Lô-Sơn và nước của sông Chiết-Giang lên xuống.

31.5.2008


72
Đỗ Mục

杜牧

秋夕

銀燭秋光冷畫屏
輕羅小扇撲流螢
天階夜色涼如水
坐看牽牛織女星

Thu tịch
Ngân chúc thu quang lãnh họa bình,
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh.
Thiên giai dạ sắc lương như thủy,
Tọa khán khiên ngưu chức nữ tinh.


Đêm thu
Nến trắng và ánh sáng thu chiếu lên trên bức màn tranh lặng lẽ,
Cái quạt lụa nhẹ xua những con đom đóm đang bay.
Trên trời sắc đêm mát như nước,
Ngồi ngắm sao Ngưu Lang và sao Chức Nữ.

29.5.2008

71

Đỗ Mục
杜牧

遣懷
落魄江湖載酒行
楚腰纖細掌中輕
十年一覺揚州夢
贏得青樓薄倖名

Khiển hoài
Lạc phách giang hồ tái tửu hành,
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.
Thập niên nhất giác Dương châu mộng,
Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh.

Khiến nhớ lại.
Từng làm khách giang hồ tự do, đi chơi luôn mang theo bình rượu,
Từng ôm những chiếc lưng kiều diễm trong bàn tay nhẹ nhàng.
Bổng tỉnh giấc mộng mười năm ở thành phố Dương-Châu ấy,
Thưở đã mang danh là kẻ bạc tình ở chốn thanh lâu.

--
26.5.2008


Version 2:

杜牧

遣懷

落魄江湖載酒行
楚腰纖細掌中輕
十年一覺揚州夢
贏得青樓薄倖名

Khiển hoài

Lạc phách giang hồ tái tửu hành,
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.
Thập niên nhất giác dương châu mộng,
Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh.

Khiến nhớ lại.

Từng làm khách giang hồ tự do, đi chơi luôn mang theo bình rượu,
Từng biết những mỹ nữ kiều diễm nhỏ nhắn tuyệt trần sánh với sủng phi của các vua dời trước.(1)
Bổng tỉnh giấc mộng mười năm ở thành phố Dương-Châu ấy,
Thưở đã mang danh là kẻ bạc tình ở chốn thanh lâu.

--
(1)
Mỹ nhân mà vua Sở thích (Sở yêu tiêm tế) hay là của vua Hán(chưởng trung khinh).


70

Đỗ Mục

杜牧
將赴吳興登樂遊原

清時有味是無能
閒愛孤雲靜愛僧
欲把一麾江海去
樂遊原上望昭陵

Tương phó Ngô-Hưng đăng Lạc-Du-Nguyên.

Thanh thì hữu vị thị vô năng,
Nhàn ái cô vân tĩnh ái tăng.
Dục bả nhất huy giang hải khứ,
Lạc Du Nguyên thượng vọng Chiêu Lăng.


Sẽ tới Ngô-Hưng lên Lạc-Du-Nguyên.

Thời bình thì thú vị nhưng ta chẳng có tài,
Khi nhàn thì thích (làm bạn với) mây đơn côi, khi tĩnh lặng thì thích (làm bạn với) nhà sư.
Muốn cầm lá cờ đi ra sông biển,
Lên Lạc Du Nguyên để chiêm ngưõng Chiêu Lăng.

20.5.2008

69

柳中庸
征人怨

歲歲金河復玉關
朝朝馬策與刀環
三春白雪歸青塚
萬里黃河繞黑山


Liễu Trung Dung

Chinh nhân oán

Tuế tuế Kim-hà phục Ngọc-quan,
Triêu triêu mã sách dữ đao hoàn.
Tam xuân bạch tuyết quy thanh trủng,
Vạn lí Hoàng-hà nhiễu Hắc-san.

Điều óan trách của người chinh nhân.

Hết ở Kim-hà lại đi Ngọc-quan,
Sớm sớm roi ngựa cùng chuôi kiếm.
Ba mùa xuân chỉ có tuyết trắng phủ những ngôi mộ xanh,
Và sông Hoàng-hà hàng vạn dặm vẫn chảy quanh núi Hắc-sơn.

--
19.5.2008
Ngày Phật-Đản 2552


68
Vi Ứng Vật
韋應物

滁州西澗

獨憐幽草澗邊生
上有黃鸝深樹鳴
春潮帶雨晚來急
野渡無人舟自橫


Trừ-Châu Tây-giản
Độc liên u thảo giản biên sanh,
Thượng hữu hoàng li thâm thụ minh.
Xuân triều đái vũ vãn lai cấp,
Dã độ vô nhân chu tự hoành.


Suối Tây-Giản ở Trừ-Châu.
Chỉ thương đám cỏ tĩnh mịch mọc bên bờ suối,
Có con chim vàng anh hót trên cây rậm rạp.
Nước triều xuân mang theo mưa, chiều đến vội,
Bến đò quê vắng người, chỉ có chiếc thuyền nằm ngang ở đó.

Chủ nhật, 18.5.2008
Mùa Phật Đãn

66

Lý -Bạch

黃 鶴樓 送 孟 浩 然 之 廣 陵

故 人西 辭 黃 鶴 樓
煙 花 三 月 下 揚州
孤 帆 遠 影 碧 空盡
惟 見 長 江 天 際流



Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng-Lăng

Cố nhân tây từ Hoàng-hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương-châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường-giang thiên tế lưu.



Ở Hoàng Hạc Lâu đưa tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng-Lăng

Tại Lầu Hoàng-Hạc người bạn cố tri của tôi đã từ giã miền tây,
Trong tháng ba hoa xuân đang nở rộ để đi xuống Dương-châu.
Hình ảnh xa xăm của cánh buồm cô đơn hiện ở cuối trời xanh biếc,
Nay chỉ còn thấy dòng Trường-giang xuôi chảy tận chân trời.


8.5.2008
--
"Đông du = Đi Nhật
Tây từ : Từ giã miền Tây => sang phía Đông" (trích nnt)

67

Vương Duy

王維

九月九日憶山東兄弟

獨在異鄉為異客
每逢佳節倍思親
遙知兄弟登高處
遍插茱萸少一人


Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn đông huynh đệ

Độc tại dị hương vi dị khách,
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ,
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân.


Dịch nghĩa:
Vương Duy

Ngày chín tháng chín nhớ huynh đệ ở Sơn-đông.

Một mình ở quê người làm người khách la,
Mỗi lần gặp ngày Trùng-cửu thì tôi nghĩ nhiều đến người thân.
Từ xa biết rằng huynh đệ (chắc là) đang lên chổ cao ấy,
Ai ai cũng cắm những cành Thù-Du (lên mình),chỉ thiếu một người (là tôi).

14.Mai 2008



Lời giới thiệu về trang này:
Sau đây là 66 bài thơ chữ Hán của nhiều tác giả, gồm có bản phỏng dịch thơ, do tôi thử dịch cho vui.

Xin hân hạnh mời các bạn thưởng thức.

Sẽ được cập nhật thường xuyên.

Nguiễn Siêng



A. Muc lục

Phần 1: Thơ chữ hán

01

Không Lộ Thiền Sư

Ngôn hoài


02 + 03
Trần Mạnh (tức là vua Trần Minh Tông (1300-1357))
Dạ Vũ

04
Mộ xuân tức sự

05
TRẦN BÍCH SAN
QUÁ HẢI VÂN QUAN

06
Mạc Ðĩnh Chi
Vãn cảnh

07
Trương Hán Siêu
Cúc hoa vịnh

08
Trần Khâm (tức vua Trần nhân Tông)
Nguyệt

09
Trần Khâm
Xuân hiểu

10
Cao bá Quát:
Bạc vãn túy qui

11
Liễu tông Nguyên
Giang tuyết
cá trên sông lạnh đầy tuyết.

12
Trần Tung
Ðằng thử vô đoan tiệm tiệm xâm,

13
Trương Hỗ
Đề kim lăng độ

14
Vô danh
Tạp thi

15
Lý thương Ẩn
Vô đề kỳ tứ

16
Lý bạch
Tặng Uông Luân

17
Hàn Ốc
Dĩ lương

18
Siêng
Vô đề

18 bis
Siêng/Toàn

19
Lý Bạch
Hạ Giang-Lăng

20
Hàn Hồng
Hàn thực

21
Vương xương Linh
Phù dung lâu tống Tân tiệm

22
Vương Xương Linh
Xuân cung khúc

23
Huyền Quang (1254 - 1334)
Ngọ Thụy

24
Huyền Quang
Thạch thất

25
Huyền Quang
Phiếm Chu

26
Huyền Quang
Tảo thu

27
Sư Giác Hải
Thị tật

28
Trần Khâm
Xuân hiểu

29
Vương Duy

Mạc dĩ kim thời sủng ,

30
Đỗ-Phủ
Khách Chí

31
Đầu năm khai bút:
Siêng

32
Trần Tung
Ngẫu tác

33
Thôi Hiệu
Xuân, hạ, thu, đông

34
Chu An
Giang Ðình Tác
Sáng tác ở trạm bên sông

35
Sieng
Paris

36
Tuệ Trung Thượng sĩ
Kiến giải

37
Phật Giám Cần thiền sư: 1059-1117, đời Tống
Vạn lý trường không vũ tiêu thời,

38
Sầm Tham
Thích trung tác

39
Thơ Cao Thích
Biệt Đổng đại

40
Cao Thích 高適
Đông-bình lộ tác

41
Huyền Quang:
Cúc hoa 5

42
Huyền Quang
Cúc Hoa 4

43
Huyền Quang
Cúc Hoa 1

44
Chu khánh Dư
Cận thí thướng Trương thủy bộ

45
Thơ Huyền Quang (1254 - 1334)
Thạch thất

46
Huyền Quang
Ngọ Thụy

47
Nguyễn Trãi
Mộ xuân tức sự

48
Trương Kế
Phong kiều dạ bạc

49
Trần Mạnh (tức là vua Trần Minh Tôn (1300-1357))
Dạ Vũ

50
Lý thương Ẩn
Long trì

51
Hàn Ốc
Dĩ lương

52
Hàn Hồng
Hàn thực


53

Vương xương Linh
Xuân cung khúc


54

Hạ tri Chương

Hồi hương ngẫu thư
55
Mãn Giác, 1052-1096
Nhất chi mai
56
Trần Tung

Xuất trần

57
Vương Duy

Tạp thi

58
Nguyển Du
Ký hữu
59
Phạm Qúy Thích
Thư Hoài
60
Lưu trường Khanh
61
Thôi Hiệu
62
Mạnh hạo Nhiên
63
Phạm Qúy Thích

Thu vãn

64
Phạm Qúy Thích

Chu trung độc tọa

65
Phạm Qúy Thich.
Tọa NguyệtCảm Hoài

--

Phần 2: Vài bài thơ tản mạn
1.
Em đi
2.
Cúp điện
3.
Hình cũ
4.
Quán Cà phê
5.
Trường Nam Xứ Quảng đã xa rồi,

6
Hết vui


B. Nội dung

1
Không Lộ Thiền Sư

言懷
擇得龍蛇地可居
野情終日樂無餘
有時直上孤峰頂
長嘯一聲寒太虛

Ngôn hoài
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư

Tiếng lòng
Chọn được đất rồng (rắn) để ở,
Tình quê hết ngày vui không thừa.
Có khi lên thẳng đỉnh núi trơ trọi,
Huýt dài một tiếng làm lạnh khoảng trời không
phỏng dịch




02 + 03
Trần Mạnh (tức là vua Trần Minh Tông (1300-1357))

夜雨
秋 氣和燈失曙明
碧蕉窗外遞殘更
自知三十年前錯
肯把閒愁對雨聲

Dạ Vũ
Thu khí hòa đăng thất thự minh
Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh
Tự tri tam thập niên tiền thác
Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh

Mưa đêm
Hơi thu hòa với ánh sáng nhạt sáng sớm.
Chuối xanh ngoài cửa sổ đưa buổi tàn canh
Chính mình biết lỗi lầm ba mươi năm trước
Muốn lấy không gian buồn (nghe) tiếng mưa
Phỏng dịch 20.7.2005
--
Vài dòng về tác giả bài thơ Dạ vũ.
Trần Mạnh tức là tên vua Trần minh Tông:

MINH TÔNG HOÀNG ĐẾ
Tên húy là Mạnh, con thứ tư của Anh Tông, mẹ đích là Thuận Thánh Bảo Từ hoàng
thái hậu Trần thị, con gái của Hưng Nhượng Đại Vương Quốc Tảng, mẹ sinh là Chiêu Hiến
hoàng thái hậu Trần thị, con gái của Bảo Nghĩa Vương Bình Trọng. Ở ngôi 15 năm, nhường
ngôi 28 năm, thọ 58 tuổi, băng ở cung Bảo Nguyên, táng ở Mục Lăng. Vua đem văn minh sửa
sang đạo trị nước, làm rạng rỡ công nghiệp của người xưa, giữ lòng trung hậu, lo nghĩ sâu
xa, trong yên ngoài phục, kỷ cương đủ bày. Tiếc rằng không nhận biết mưu gian của Khắc
Chung, để đến nỗi Quốc Chẩn phải chết, đo là chỗ kém thông minh vậy.
[...]

(theo ÐVSKTT)
--
Trần Minh Tông (1314-1329)
Niên hiệu:

- Đại Khánh (1314-1323)
- Khai Thái (1324-1329)

Vua Trần Minh Tông sinh năm 1300 có tên là Trần Mạnh con vua Trần Anh Tông và bà Chiêu Hiến (con gái của Trần Bình Trọng). Vua có lòng nhân hậu , hay thương người nhưng xét việc chưa minh. Năm Â't Mão (1315) vua định lệ cấm người trong họ không được kiện cáo nhau. Năm Quý Hợi (1323) mở khoa thi Thái học sinh chọn người tài ra giúp nước. Nhờ biết tôn trọng kẻ sĩ nên vua Trần Minh Tông đã có dưới trướng mình những hiền thần như Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An giúp rập. Do quá tin vào bọn nịnh thần, vua đã giết oan Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một người có công, là chú ruột đồng thời là bố vợ mình. Minh Tông làm vua đến năm Kỷ tị (1329) thì nhường ngôi cho Thái tử Vượng về làm Thái thượng hoàng.


04
Nguyễn Trãi - 阮廌

Mộ xuân tức sự
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai .
Ðỗ vũ thanh trung xuân hướng lão ,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai .


暮春即事
閑中盡日閉書齋
門外全無俗客來
杜宇聲中春向老
一庭疏雨楝花開


Tức cảnh cuối xuân
Nhàn hạ cả ngày đóng cửa phòng văn.
Không có khách tục đến cửa ngoài.
Trong tiếng chim cuốc(Ðỗ Vũ)( nhắc) là xuân đã muộn ,
Mưa phùn (bay) trong sân, hoa xoan nở.
Chuyển qua chữ hán và dịch nghĩa 26.7.2005

05
TRẦN BÍCH SAN


QUÁ HẢI VÂN QUAN
Tam niên tam thướng Hải Vân đài,
Nhất điẻu thân khinh độc vãng hồi .
Thảo thụ bán không đê nhật nguyệt,
Càn khôn chích nhãn tiểu trần ai !
Văn phi sơn thuỷ vô kỳ khí
Nhân bất phong sương vị lão tài .
Mạc đạo Tần quan chinh lộ hiểm,
Mã đầu hoa tận đới yên khai !


過海雲關
三年三上海雲臺
一鳥身輕獨往回
草樹半空低日月
乾坤隻眼小塵埃
文非山 水無奇氣
人不風霜 未老才
莫道秦關征路險
馬頭花盡帶煙開


06
Mạc Ðĩnh Chi 莫挺之

晚景
空翠浮煙色
春藍發水紋
墻烏啼落照
漁火前灣見
野雁送歸雲
樵歌隔岸聞
借酒作微醺
旅顏悲冷落

Vãn cảnh
Không thúy phù yên sắc
Xuân lam phát thủy văn
Tường ô đề lạc chiếu
Dã nhạn tống quy vân
Ngư hỏa tiền loan kiến
Tiều ca cách ngạn văn
Lữ nhan bi lãnh lạc
Tá tửu tác vi huân.

Cảnh chiều
Trên trời xanh biếc có màu của khói bay,
Mùa xuân xanh tươi, nước gợn sóng
Bên tường quạ kêu (trong) nắng nhạt
Chim nhạn tiễn mây đang bay về
Thấy đám lửa thuyền câu trước vịnh
Nghe tiếng hát của tiều phu trên bờ
Dáng mặt lữ khách trông buồn tẻ.
Nhờ rượu làm cho say.

Siêng tạm dịch và ghi hán tự 14.8.2005

Mạc Ðĩnh Chi tự là Tiết Phu, người làng Lan Khê, huyện Bàng Hà, nay là huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, sau dời đến làng Lũng Ðộng, huyện Chí Linh. Ðậu trạng nguyên đời vua Trần Anh Tông, từng đi sứ nhà Nguyên. Làm quan được tiếng thanh liêm.

07
Trương Hán Siêu

去年今日有花多
對客愁無酒可賒
世事相違每如此
今朝有酒却無花

Cúc hoa vịnh
Khứ niên kim nhật hữu hoa đa
Ðối khách sầu vô tửu khả xa .
Thế sự tương vi mỗi như thử,
Kim triêu hữu tửu khước vô hoa .

Dịch nghĩa:
Vịnh hoa cúc
Năm ngoái ngày này có nhiều hoa
Có bạn (nhưng) buồn (vì) không mua được rượu
Việc đời thường trái ngược nhau như thế.
Sớm nay có rượu lại không có hoa.
16.8.2005
--

Trương Hán Siêu


Trương Hán Siêu tên tự là Thăng Phủ hiệu là Độn Tẩu, người xã Phúc Am huyện Yên Khánh tỉnh Ninh Bình. Không biết ông sinh năm nào, chỉ biết ông mất năm 1354 đời vua Trần Dụ Tông. Thời trai trẻ ông được Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn rất tin phục và tiến cử lên triều đình. Với nhiều công trạng trong hai cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên, năm 1308 vua Trần Anh Tông thăng cho Trương Hán Siêu chức Hàn lâm học sĩ. Đến đời vua Trần Dụ Tông ông lại được giao nhiều chức vụ quan trọng. Năm 1353 khi thống lĩnh đạo quân Thần Sách đi trấn đất Hóa Châu (Bình Trị Thiên) ông bị bệnh nặng. Năm sau cáo bệnh xin về nhưng chưa đến kinh đô ông đã qua đời. Nhà vua vô cùng thương tiếc đã tặng ông chức Thái Bảo.


08
Trần Khâm (tức vua Trần nhân Tông)

Nguyệt
Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư .
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ .


半窗燈影滿牀書
露滴秋庭夜氣虛
睡起砧聲無覔處
木樨花上月來初

Tạm dịch:
Trăng
Nửa cửa sổ bóng đèn soi giá đầy sách.
Khí trời đêm loãng (và) dáng những giọt sương thu trong sân.
Ngủ dậy nghe tiếng chày không biết từ đâu
Trên cây hoa quế trăng mới mọc.

--
Trần Khâm 陳昑 tức là vua Trần nhân Tông 陳仁宗 (sinh: 1258; mất: 1308).

09
Trần Khâm

Xuân hiểu
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy .
Nhất song bạch hồ điệp ,
Phách phách sấn hoa phi

春曉
睡起啟窗扉
不知春己歸
一雙白蝴蝶
拍拍趁花飛

Xuân sớm
Ngủ dậy mở cánh cửa (sổ)
Không biết xuân đã về
Một đôi bươm bướm trắng,
Vổ cánh đưổi theo hoa bay

Dán hán tự và tạm dịch 21.8.2005

10
Cao bá Quát:

Bạc vãn túy qui
Mính đính qui lai bất dụng phù,
Nhất giang yên trúc chính mô hồ.
Nam nam tự dữ liên hoa thuyết,
Khả đắc hồng như tửu diện vô?

Chuyển qua hán tự.

薄晚醉歸
酩酊歸來不用扶
一江煙竹正模糊
喃喃自與蓮花說
可得紅如酒面無

Dịch nghĩa.

Say mèm trỡ về không cần giúp
Lờ mờ khói trúc một dòng sông
Lầm bầm mình nói với hoa sen:
- (Mi) có thể hồng như mặt rượu (của ta) không?

7.10.2005
--
Chiều rơi
Đất cũng chênh nghiêng
Một đường một cõi mình riêng xứ này
Giòng sông
Khói sóng
Men say
Ô kìa !
Hoa nhỏ thân gầy hư hao
Cho ta hôn nhẹ má đào
Mà này cô bé !
Mặt nào hồng hơn ?
bản phỏng dịch của anh Tran Duy Thực
11
Liễu tông Nguyên
江雪
千山鳥飛絕
萬徑人踪滅
孤舟蓑笠翁
獨釣寒江雪

Giang tuyết
Thiên sơn điểu phi tuyệt,
Vạn kính nhân tung diệt.
Cô chu toa lạp ông,
Ðộc điếu hàn giang tuyết.


Tuyết trên sông
Ngàn núi chim bay hết,
Vạn lối mất dấu chân người.
Thuyền cô đơn và ông già mang áo tơi,
Một mình câu cá trên sông lạnh đầy tuyết.

12
Trần Tung

Ðằng thử vô đoan tiệm tiệm xâm,
Quy lai chung lão ký sơn lâm.
Sài môn mao ốc cư tiêu sái,
Vô thị vô phi tự tại tâm.

藤鼠無端漸漸侵
歸來終老寄山林
柴門茅屋居蕭灑
無是無非自在心

Dây leo và chuột không nguyên do dần dần tiến đến,[1]
Về gởi thân ở núi rừng cho đến hết tuổi già.
Ở thảnh thơi ở nhà tranh có cửa bằng cỏ,
Không "phải" không "trái", sống tự nhiên từ tâm mình.

Siêng phỏng dịch 3.11.2005

13
Trương Hỗ張祜

題金陵渡

金陵津渡小山樓,
一宿行人自可愁。
潮落夜江斜月裡,
兩三星火是瓜州。

Đề kim lăng độ
Kim-lăng tân độ tiểu sơn lâu ,
Nhất túc hành nhân tự khả sầu.
Triều lạc dạ giang tà nguyệtlí.
Lưỡng tam tinh hỏa thị Qua-châu.

Bến đó Kim-Lăng
Lầu Tiêu Sơn Bến đò Kim-Lăng,
Một đêm, người hành giả tự thấy buồn.
Trăng tà,thủy triều xuống trên sông về đêm,
Vơí nhiều tia sáng của Qua-châu.

29.4.2007
Siêng


14
Vô danh無名氏

雜詩
盡寒食雨草萋萋,
著麥苗風柳映堤。
等是有家歸未得
杜鵑休向耳邊啼。


Tạp thi
Tận hàn thực vũ thảo thê thê ,
Trứ mạch miêu phong liễu ánh đê .
Đẳng thị hữu gia quy vị đắc ,
Đỗ quyên hưu hướng nhĩ biên đề .


Gần sắp đến tết Hàn thực nhưng mưa làm cỏ mọc um tùm.
Lúa tẻ lúa non trong gió (và) cây liễu trãi bóng trên ánh đê
Cùng là có nhà (nhưng) về chưa được
Nghe chim cuốc hót ven bờ gọi về nghỉ ngơi.

20.7.2005

15

Bài này dịch riêng tặng T.Vân

Lý thương Ẩn

無題其四
相見時難別亦難
東風無力百花殘
春蠶到死絲方盡
蠟炬成灰淚始乾
曉鏡但愁雲鬢改
夜吟應覺月光寒
蓬萊此去無多路
青鳥殷勤為探看


Vô đề kỳ tứ
Tương kiến thời nan biệt diệc nan
Đông phong vô lực bách hoa tàn
Xuân tàm đáo tử ti phương tận
Lạp cự thành hôi lệ thủy can
Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải
Dạ ngâm ứng giác nguyệt quang hàn
Bồng Lai thử khứ vô đa lộ
Thanh điểu ân cần vị thám khan.


Vô đề số bốn
Gặp nhau thì khó chia tay cũng khó
Gió đông không có sức, trăm hoa tàn.
Con tằm mùa xuân đến chết mới hết nhả tơ
Ngọn nến thành tro mới khô nước mắt.
Sớm soi gương buồn tóc mây đã đổi thay
Đêm ngâm thơ mới biết ánh trăng lạnh
Chốn Bồng Lai ấy đi không có nhiều lối,
(Mong) Chim xanh ân cần giúp tìm xem .
Siêng phỏng dịch 13.7.05
16

Lý bạch李白

贈汪倫
李白乘舟將欲行,
忽聞岸上踏歌聲。
桃花潭水深千尺,
不及汪倫送我情!

Tặng Uông Luân
Lý bạch thừa chu tương dục hành,
Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.
Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích,
Bất cập Uông Luân tống ngã tình!

Lý Bạch cỡi thuyền sắp sửa ra đi,
Bỗng nghe trên bờ có tiếng chân ca hát.
Nước ở Ðào hoa Ðàm sâu nghìn thước,
Không thể sánh với cái tình của Uông Luân tiễn ta.
dịch nghĩa 29.6.2005

Tặng Uông Luân
Lý Bạch lên thuyền sắp sửa rời,
Chợt nghe có tiếng hát trên khơi,
Ðào-hoa-Ðàm nước sâu thăm thẳm,
Chẳng thể bằng tình Uông tiễn tôi.

phỏng dịch 30.6.2005

--

Ðào Hoa Ðàm là tên 1 địa danh ở An-huy.

17

Hàn Ốc
韓偓
已涼

碧闌干外繡簾垂,
猩色屏風畫折枝。
八尺龍鬚方錦褥,
已涼天氣未寒時。


Dĩ lương
Bích lan can ngoại tú liêm thùy ,
Tinh sắc bình phong họa chiết chi .
Bát xích long tu phương cẩm nhục ,
Dĩ lương thiên khí vị hàn thời.

Quá lạnh
Lan can màu xanh bên ngoài (có) bức rèm rủ xuống,
Sắc đỏ của tấm bảng che gió có bức họa cành cây cong.
Tám thước râu rồng trên cái đệm gấm hình vuông,
Khí trời quá lạnh khi chưa tới mùa rét.

Tạm phỏng dịch, mong qúy bác chỉ giáo
29.6.05

18

Siêng

Ðêm về mệt nhoài ngã xuống giường,
Sau ngày đi xa xuống nam phương.
Trong phòng đã tắt ngọn đèn cuối,
Nhác nhìn cửa sổ thấy trăng cười.

Khúc Thần viết:
Vậy, chắc Bạn Siêng biểu tui chuyển sang tiếng Hán bài thơ trên của Bạn? Nếu thế thì khó cho tui lắm. Tui mà thơ với thẩn gì. Không khéo lại bị các bác khác cười cho. Thôi thì cũng đã thử nên cũng xin đưa lên để hầu các bác:

無 題
到 家 夜 倦 息 于 床
南 遠 還 來 亦 一 方
明 盡 孤 燈 房 裏 靜
目 前 月 皓 笑 吾 膓

Vô đề
Đáo gia dạ quyện tức vu sàng,
Nam viễn hoàn lai diệc nhứt phương.
Minh tận cô đăng phòng lý tĩnh,
Mục tiền nguyệt hạo tiếu ngô trường.

--

Toàn

Tôi xin tặng bạn Siêng bài thơ chữ Hán tôi chuyển dịch từ bản gốc chữ Quốc Ngữ của bạn Siêng. Khi tôi dịch thì tôi thích dịch sát nghĩa từ bài gốc và cố gắng lấy đầy đủ ý của nguyên tác để tôn trọng nguyên tác và tác giả, nhưng đó chỉ là cách dịch của tôi thôi !

Tôi lấy vần "iên" cho bài thất ngôn tứ tuyện này !

夜還疲倦倚床邊
遠行已到盡南天
房內孤燈皆熄滅
忽見皓月笑窗前

Dạ hoàn bì quyện ỷ sàng biên
Viễn hành dĩ đáo tận Nam thiên
Phòng nội cô đăng giai tức diệt
Hốt kiến hạo nguyệt tiếu song tiền

Ghi chú:
Dùng chữ "倒đảo(ngã)" thế chữ ""倚ỷ(dựa)" cũng được.

Bài gốc:
Ðêm về mệt nhoài ngã xuống giường,
Sau ngày đi xa xuống nam phương.
Trong phòng đã tắt ngọn đèn cuối,
Nhác nhìn cửa sổ thấy trăng cười.

19
Lý Bạch
李白

下江陵
朝辭白帝彩雲間,
千里江陵一日還。
兩岸猿聲啼不住,
輕舟已過萬重山。


Hạ Giang-Lăng
Triêu từ Bạch-Ðế thái vân gian,
Thiên lý Giang-Lăng nhất nhật hoàn.
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ,
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.

Sớm từ giã Bạch đế khi trời mây rực rỡ,
Giang Lăng xa 1 ngàn dặm đi về trong 1 ngày.
Bên cả hai bờ (nghe) tiếng vượn kêu mãi không thôi(住),
Thuyền nhẹ đã vượt ngàn núi non.

Giã từ Bạch-đế sáng trời mây,
Về lại Giang-Lăng chỉ một ngày.
Tiếng vượn đôi bờ kêu mãi thế,
Thuyền đi đã vượt vạn trùng san.
phỏng dịch 23.6.2005
20

Hàn Hồng

韓翃
寒食

春城無處不飛花,
寒食東風御柳斜。
日暮漢宮傳蠟燭,
輕煙散入五侯家。

Hàn thực

Xuân thành vô xứ bất phi hoa,
Hàn thực đông phong ngự liễu tà.
Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc,
Khinh yên tán nhập ngũ hầu gia.

Trong thành mùa xuân không có nơi nào mà hoa chẳng bay,
Tết Hàn-thực gió mùa đông làm cây liễu xiu vẹo.
Trời tối trong cung nhà Hán ra lệnh thắp nến,
Khói nhẹ tan ra đi vào những nhà của các bầy tôi của vua.
20.6.2005
tạm dịch

Version 3: sửa câu 2
Thành xuân khắp chốn có hoa bay,
Hàn thực gió về khua liễu gầy.
Đã tối trong cung truyền thắp nến,
Tan đi khói nhẹ tỏa nhà nhà .
Tạm phỏng dịch 21.6.05

21


Vương xương Linh

王昌齡
芙蓉樓送辛漸

寒雨連江夜入吳,
平明送客楚山孤。
洛陽親友如相問,
一片冰心在玉壺。

Phù dung lâu tống Tân tiệm
Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô ,
Bình minh tống khách Sở san cô .
Lạc dương thân hữu như tương vấn ,
Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ .

Lầu Phù Dung đưa tiễn Tân niệm
Mưa lạnh tràn sông khi đi vào nước Ngô,
Vào lúc mờ sáng tiễn khách đi chỉ có núi nước Sở đứng cô quạnh.
Bạn thân ở Lạc dương mà có hỏi,
Mãnh tim băng giá và tinh khiết này đã để trong bình ngọc.

Mưa lạnh tràn sông đêm đến Ngô,
Sớm mai tiễn khách núi đơn cô.
Bạn bè phố Lạc khi nào hỏi,
Một mảnh tình ta chốn ngọc hồ.


18.6.2005
phỏng dịch

22
Vương Xương Linh


Xuân cung khúc
Vị ương tiền điện nguyệt luân cao .
Tạc dạ phong khai lộ tỉnh đào ,
Bình dương ca vũ tân thừa sủng ,
Liêm ngoại xuân hàn tứ cẩm bào .

Chun gong qu
wèi yang qián diàn yuè lún gao .
zuó yè feng kai lù jĭng táo ,
píng yáng ge wŭ xin chéng chǒng ,
lián wài chun hán cì jĭn páo .

Khúc mùa xuân trong cung(nhà vua ở)
Đêm qua gió làm nở hoa đào bên giếng Lộ
Trước điện Vị Ương trăng mọc trên cao.
Cô gái ca múa (mới) ở (nhà) Bình dương được nhận ân vua.
Bên ngoài rèm (trời) xuân lạnh (vua) ban cho áo gấm.
Siêng phỏng dịch 11.6.2005

Vị Ương trăng mọc ở trên cao,
Giếng Lộ đêm qua gió thổi đào.
Có cô ca múa nhở ân sủng,
Bên ngoài xuân lạnh áo bào trao
16.6.2005
phỏng dịch

23
Huyền Quang (1254 - 1334)

Ngọ Thụy
Vũ quá khê sơn tịnh,
Phong lâm nhất mộng lương .
Phản quan trần thế giới,
Khai nhãn túy mang mang .

午 睡
雨過溪山淨
楓林一夢涼
反觀塵世介
開眼醉茫茫

sửa lại 23.9.2005

Phỏng dịch nghĩa:

Giấc ngủ trưa
Tạnh mưa khe núi nước thì trong
Rừng phong mát mẽ sau giấc ngủ say (mộng).
Nhìn lại cõi trần này.
Khi bừng mắt tỉnh dậy thấy niềm say man mác.

Giấc trưa
Mưa tạnh trong khe núi nước trong,
Thả hồn giấc mộng mát rừng phong
Từng nhìn ngoảnh lại nơi trần thế,
Bừng mắt tỉnh mà man mác lòng.

phỏng dịch
28.8.2005

24
Huyền Quang

Thạch thất
Bán gian thạch thất hòa vân trụ
Nhất lĩnh thuế y kinh tuế hàn
Tăng tại thiền sàng kinh tại án
Lô tàn cốt đốt nhật tam can


石室
半閒石室和雲住
一嶺毳衣經歲寒
僧在禪牀經在案
爐殘榾柮日三杆

Dịch nghĩa:
Nhà trên vách núi
Nửa gian nhà núi ở trong mây
Trải qua mùa đông với một áọ lông
Thày chùa ở giường thiền, kinh ở trên bàn.
Bếp tàn hương nguội nhưng mặt trời lên cao ba sào.

Nhà trên vách núi
Nửa gian thạch thất ở trong mây,
Trãi một mùa đông chiếc áo lông
Sư ở sàng thiền kinh tại án
Bếp tàn hương nguội sáng vần đông

Version 2:
Không sát ý hơn nhưng hợp vần và vui hơn

Nhà trên vách núi
Nửa gian thạch thất lẫn mây hồng,
Trãi lạnh mùa đông chiếc áo lông
Sư ở sàng thiền kinh tại án
Bếp tàn hương nguội sáng vầng đông

Phỏng dịch thơ 26.9.2005


25
Huyền Quang

Phiếm Chu
Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh, thủy lục hựu thu quang,
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương

小艇乘風泛渺茫
山清水淥又秋光
數聲漁笛蘆花外
月落波心江滿霜

Tạm dịch nghĩa:
Thuyền con cỡi gió trôi (泛) lênh đênh nơi xa mù.
Non xanh nước biếc trong nắng mùa thu
Có tiếng sáo từ thuyền chài bay ra ngoài khóm hoa laụ
Trăng rơi giữa sóng (trên) mặt sông đầy sương .

Phỏng dịch thơ:

Thuyền con cỡi gió cõi xa mù,
Nước biếc non xanh với nắng thu
Tiếng sáo thuyền ngư cập bãi lau
Trăng rơi giữa sóng lớp sương giăng.

9.2005

26
Huyền Quang

Tảo thu
Dạ khí phán lương nhập họa bình.
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh .
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn.
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh .


早秋
夜氣分涼入畫屛
蕭蕭庭樹報秋聲
竹堂忘適香初燼
一一叢枝網月明

Tạm dịch nghĩa:

Ðầu thu
Khí đêm tỏa mát vào bức mành
Tiếng lá rụng của cây trong sân báo tiếng thu
Trong gian nhà trúc quên bẳng hương mới tàn
Từng cành cây đều giăng đón ánh trăng.

Ðầu thu
Hơi đêm tỏa mát bừc tranh mành,
Xào xạc cây sân nhắc tiếng thu
Quên bẳng hương tàn, nhà trúc ngụ
Từng cành giăng bủa đón trăng vàng.

Tạm phỏng dịch 25.9.2005


27
Sư Giác Hải

示 疾

春 來 花 蝶 善 知 時
花 蝶 應 須 共 應 期
花 蝶 本 來 皆 是 幻
莫 須 花 蝶 向 心 持

Thị tật

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bổn lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì

Xuân tới hoa bướm khéo biết thời
Hoa (nở) bướm (bay) cũng theo thời hạn.
Hoa bướm hết thảy nguyên là ảo cả
Chớ nên bận lòng tới hoa và bướm.

phỏng dịch
22.8.2005
28

Trần Khâm

Xuân hiểu
Thụy khởi khải song phi,
Bất tri xuân dĩ quy .
Nhất song bạch hồ điệp ,
Phách phách sấn hoa phi

春曉
睡起啟窗扉
不知春己歸
一雙白蝴蝶
拍拍趁花飛

Xuân sớm
Ngủ dậy mở cánh cửa (sổ)
Không biết xuân đã về
Một đôi bươm bướm trắng,
Vổ cánh đưổi theo hoa bay

Dán hán tự và tạm dịch 21.8.2005

29
Vương Duy

莫以今時寵,
能忘舊日恩。
看花滿眼淚,
不共楚王言。

Mạc dĩ kim thời sủng ,
Năng vong cựu nhật ân .
Khán hoa mãn nhãn lệ ,
Bất cộng Sở vương ngôn .

Chớ thấy ân huệ hôm nay,
Mà quên ân tình cũ,
Xem hoa tràn nước mắt,
Chẳng một lời cùng Sở Vương.
Thứ năm, 26.10.2007


30
Đỗ-Phủ 杜甫
客至

舍南舍北皆春水,
但見群鷗日日來。
花徑不曾緣客掃,
蓬門今始為君開。
盤飧市遠無兼味,
樽酒家貧只舊醅。
肯與鄰翁相對飲,
隔籬呼取盡餘杯。


Khách Chí
Xá nam xá bắc giai xuân thủy ,
Ðãn kiến quần âu nhật nhật lai .
Hoa kính bất tằng duyên khách tảo ,
Bồng môn kim thủy vị quân khai.
Bàn tôn thị viễn vô kiêm vị ,
Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi
Khẳng dữ lân ông tương đối ẩm ,
Cách li hô thủ tận dư bôi .


Khách đến thăm
Phía nam phía bắc của nhà trọ đều có nước xuân.
Những thấy đàn chim âu ngày ngày bay đến.
Chưa từng có cái duyên để quét ngõ hoa cho khách tới thăm,
Vì bạn nên hôm nay mới mở cửa bồng.
Mâm cơm vì chợ xa, không mùi vị.
Chén rượu nhà nghèo chỉ là rượu thô cũ mèm.
Ðược cùng ông láng giềng đối ẩm,
Hô lấy chút rượu còn dư đem ra bờ rào cùng uống.
31

Siêng

Đầu năm khai bút:

Đông này tuyết phủ mãi trời Âu,
Xuân xanh đà tới bên trời Á
Hết rồi những năm dài buồn bã
Châu Á bừng lên những sắc màu
February 09, 2005 03:23PM


Toàn chuyển qua hán tự:

冬雪绵绵欧洲天
春回大地亚洲边
苦闷长年终已去
灿烂缤纷亚洲延

chuyển qua Hán việt:

Đông tuyết miên miên âu châu thiên
Xuân hồi đại địa á châu biên
Khổ muộn trường niên chung dĩ khứ
Xán lạn tân phân á châu duyên

32
Trần Tung

Ngẫu tác
Ðường trung đoan tọa tịch vô nghiên,
Nhàn khán Côn-Luân nhất lũ yên.
Tự thị quyện thời tâm tự tức,
Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền.

偶作
堂中端座寂無言
閑看崑崙一縷煙(烟)
自是倦時心自息
不關攝念不關禪

Ngẫu hứng

Ngồi ngay giữa nhà lặng yên không nóị
Nhàn nhã ngắm một làn khói bay lên trên núi Côn Luân.
Khi nào tự thấy mệt mỏi thì tâm tự nghỉ ngơi.
Không cầu niệm cũng không cầu thiền.

Giữa Tết Tây và Tết Ta
20.Jan.2006

Thứ ba, 16.10.2007

33
Thôi Hiệu

春遊芳草地,
夏賞綠荷池,
秋飲黃菊酒,
冬吟白雪詩.

Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng cúc tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi.


Mùa xuân đi thăm nơi cỏ mọc
Mùa hạ thưởng thức ao sen xanh
Mùa thu uống rượu cúc vàng
Mùa đông ngâm thơ tuyết trắng


Xuân, hạ, thu, đông

Xuân xem hoa cỏ mọc
Hạ ngắm hồ sen xanh
Thu uống rượu cúc vàng
Đông say màu tuyết trắng

Toàn dịch thơ:

Xuân thăm xứ cỏ hương bay
Hạ thì thưởng thức ao đầy sen xanh
Thu uống rượu cúc vàng lành
Đông ngâm thơ tuyết tuyết thành bạch thanh


Jan. 2005

Thứ bảy, 4.12.2005

34
Chu An
Giang Ðình Tác

Giang đình độc lập sổ quy chu,
Phong cấp than tiền nhất địch thu .
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm,
Mộ thiên vọng đoạn bích du du .
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
Hồ hải lưu vi hãn mạn du .
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.

江亭作
江亭獨立數歸舟
風急灘前一笛秋
斜日吟殘紅淡淡
暮天望斷碧悠悠
功名已落荒唐夢
湖海聊爲汗漫遊
自去自來魂不管
滄波萬頃羨飛鷗


Sáng tác ở trạm bên sông
Ðứng một mình ở trạm bên sông đếm thuyền về
Gió gấp thổi trước bãi đất ven bờ nghe tiếng sáo thu .
Hết ngâm nga ngày xế ánh hồng nhạt nhạt
Trông xa trời chiều, màu xanh biếc mênh mông.
Công danh đã qua như giấc mộng hoang đường.
Hãy được chu du lang bạc chốn hải hồ.
Tự đi tự đến tâm hồn không bị ràng buộc,
Thích (cảnh) chim âu bay trên muôn sóng biển.

phỏng dịch
4.12.2005

35
Siêng

Paris
Trỡ lại Paris một sáng thu,
Ga Ðông thưa vắng mái vòm u.
Metro rảo lối về nơi trọ,
Phố cũ Michel dáng học trò.
Paris 9.11.2005



Ba lê
Hựu đáo Ba lê nhất hiểu thu,
Tịch liêu Ðông trạm ốc đính u.
Mê lô khinh bộ lâm trú quán,
Cựu phố Michel kỷ học đồ.
(bản Hán việt : Khúc Thần)

巴黎
又到巴黎一曉秋
寂 寥東站屋頂紆
迷盧輕步臨住館
舊鋪米歇幾学徒


Thứ 7, 5.11.2005

36

Tuệ Trung Thượng sĩ

Kiến giải

Kiến giải trình kiến giải,
Tự niết mục tác quái.
Niết mục tác quái liễu,
Minh minh thường tự tại.

見解
見解呈見解
自捏目作怪[1]
捏目作怪了
明明常自在


Giải thích rồi lại giải thích,
Tự dụi vào mắt mình một cách lạ lùng. (quái)
Dụi mắt làm quái xong,
Sự sáng tỏ lại về và ta tự tại.

Giải thích như tui hiểu:
Sự vật khách quan không dễ nhận biết vì ta có định kiến, u mê vân vân (như là tự ấn dụi vào chính mắt mình) nên nhìn không chính xác sự vật. Khi con mắt trỡ lại bình thường thì người ta sẽ sáng tỏ sự vật khách quan trỡ lại. Và sẽ an tâm tự tại.

Tạm dịch 6.11.2005


Thứ 6, 28.10.2005

37

Phật Giám Cần thiền sư: 1059-1117, đời Tống

Vạn lý trường không vũ tiêu thời,
Nhất luân minh nguyệt ánh thanh huỵ
Phù vân yểm đoạn thiên nhân mục,
Ðắc kiến Thường Nga diện giả hy .

萬里長空雨霄時
一輪明月映清輝
浮雲掩斷千人目
得見嫦娥面者稀

Dịch nghĩa:
Ngàn dặm dài trời mưa sương mù,
Một vầng trăng sáng có ánh sáng chiếu rực rỡ.
Mây bay che phủ làm nghìn mắt người không thấy được,
Ðược nhìn mặt nàng Hằng nga quả là điều hiếm vậy.

Phỏng dịch 28.10.2005

Thứ năm 27.10.2005

38

Sầm Tham

岑參

磧中作

走馬西來欲到天
辭家見月兩回圓
今夜不知何處宿
平沙萬里絕人煙

Thích trung tác

Tẩu mã tây lai dục đáo thiên,
Từ gia kiến nguyệt lưỡng hồi viên.
Kim dạ bất tri hà xứ túc,
Bình sa vạn lý tuyệt nhân yên.

Thơ làm từ sa mạc

Dong ngựa về phía tây đến cõi xa xôi,
Từ khi xa nhà đến nay đã thấy hai bận trăng tròn.
Ðêm nay không biết nghỉ ở đâu?
Cát dài vạn dặm không thấy khói bếp nhà ai.

Thứ tư 26.10.2005

39
Cao Thích

天裡黃昏白日曛
北風吹雁雪雰雰
莫愁前路無知己
天下何人不識君

Biệt Đổng đại
Thiên lý hoàng hôn bạch nhật huân
Bắc phong xuy nhạn tuyết phân phân
Mạc sầu tiền lộ vô tri kỉ
Thiên hạ hà[1] nhân bất thức quân

Chia tay Đổng đại
Ngàn dặm hoàng hôn chiều nắng quái,
Gió bắc thổi, nhạn bay, tuyết rơi lả tả
Ðừng buồn vì con đưởng trước mặt không có tri kỉ
Người đời bộ không có ai hiểu anh sao?

40

Cao Thích 高適

Đông-bình lộ tác

Thanh khoáng lương dạ nguyệt
Bồi hồi cô khách chu
Diểu nhiên phong ba thượng
Độc mộng tiền sơn thu
Thu chí phục dao lạc
Không linh hành giả sầu

東平路作

清曠涼夜月
徘徊孤客舟
渺然風波上
獨夢前山秋
秋至復搖落
空令行者愁

Thơ làm trên đường đi Ðông-bình

Trời xanh bao la mát mẻ có trăng đêm,
Thuyền khách lẻ loi bồi hồi
Trên sóng gió xa khơi
Một mình mơ thấy núi thu xưa
Thu về lại rơi rụng
Trời khiến người đi u sầu.

Phỏng dịch thơ (không sát)

Trời trong mát mẻ ánh trăng đêm,
Thuyền khách bồi hồi sóng vổ êm,
Dừng lại người mơ thu cảnh cũ,
Nghĩ về lá rụng dạ sầu thêm.



Thứ ba 25.10.2005

41

Huyền Quang:


Cúc hoa 5
Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
Phần hương độc tọa tự vong ưu.
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầụ

菊花
花在中庭人在樓
焚香獨坐自忘憂
主人與物 渾無競
花向群芳出一頭

Hoa cúc (5)
Hoa ở giữa sân người trên lầu,
Thắp hương ngồi một mình quên nỗi lo buồn.
Chủ nhân với vật(hoa) hồn hậu không cạnh tranh,
Hoa cúc thì hạng nhất (nghĩa đen: hơn 1 cái đầu) so với các loài hoa cỏ thơm (khác).
phỏng dịch 25.10.2005

Hoa cúc 5
Cúc nở trong sân người ở lầu,
Hương thơm người thắp để quên sầu.
Người thiền tĩnh vật cùng yên nhỉ!
Sánh với trăm hoa cúc đứng đầu.
Phỏng dịch thơ
25.10.05

Chủ nhật 16.10.2005

42

Huyền Quang


Cúc Hoa 4
Niên niên hòa lộ hướng thu khai,
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài .
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai .

年年和露向秋開
月淡風光愜寸懷
堪笑不明花妙處
滿頭 隨到挿[1]歸來

Hoa cúc 4
Hàng năm hoa nở vào thu cùng với sương móc.
Trăng thanh trời quang đãng, thỏa thích tấc lòng
Ðáng cười ai không rõ sự huyền diệu của hoa,
Bất cứ tới đâu (thấy hoa) cắm đầy đầu mang về.


hướng thu : tạm dịch là vào thu.

Thứ sáu 14.10.2005

43

Huyền Quang

Thiền sư Huyền Quang (Lý Ðạo Tái)1254-1334

Cúc Hoa 1
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia .
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tùy xứ thổ hoàng hoa .

菊花
松聲蔣詡先生逕
梅景西湖處士家
義氣不同難苟合
故園隨處吐黄花


Hoa cúc 1
Lối vào nhà tiên sinh Tường Hủ thông reo,
Cảnh hoa mai ở Hồ Tây , nhà của người ẩn sĩ.
Nghĩa khí không giống nhau thì chắc khó mà hợp.
Hoa vàng nở mọi nơi trong vườn cũ.

--
(Huyền Quang玄光 là nhà sư vửa là nhà thơ có tiếng đời Trần)

11.10.2005

44
Chu khánh Dư
朱慶餘
近試上張水部

洞房昨夜停紅燭,
待曉堂前拜舅姑。
妝罷低聲問夫壻,
畫眉深淺入時無。



Cận thí thướng Trương thủy bộ

Động phòng tạc dạ đình hồng chúc ,
Ðãi hiểu đường tiền bái cữu cô .
Trang bãi đê thanh vấn phu tế ,
"Họa my thâm thiển nhập thời vô?".

tạm dịch nghĩa:

Gần ngày thi dâng Trương thủy bộ

Ðêm qua động phòng nến hồng đà tắt.
Ðợi sáng sớm ra trước nhà lễ lạy bố mẹ chồng
Trang điểm xong khẽ hỏi chồng:
(Em) Vẽ lông mày đậm nhạt (như vầy) có hợp thời không?

Phỏng dịch thơ :

Ðèn hồng đã tắt chốn tân hôn,
Ðợi sáng lên nhà bái tổ tông
Mới điểm trang xong nàng hỏi khẽ:
Vẽ mày đậm nhạt hợp thời không?

10.10.2005

45
Huyền Quang (1254 - 1334)

Thạch thất
Bán gian thạch thất hòa vân trụ
Nhất lĩnh thuế y kinh tuế hàn
Tăng tại thiền sàng kinh tại án
Lô tàn cốt đốt nhật tam can


石室
半閒石室和雲住
一嶺毳衣經歲寒
僧在禪牀經在案
爐殘榾柮日三杆

Dịch nghĩa:
Nhà trên vách núi
Nửa gian nhà núi ở trong mây
Trải qua mùa đông với một áọ lông
Thày chùa ở giường thiền, kinh ở trên bàn.
Bếp tàn hương nguội nhưng mặt trời lên cao ba sào.

Nhà trên vách núi
Nửa gian thạch thất lẫn mây hồng,
Trãi lạnh mùa đông chiếc áo lông
Sư ở sàng thiền kinh tại án
Bếp tàn hương* nguội sáng vần đông

Phỏng dịch thơ 26.9.2005
--
Bếp tàn hương nguội: nghĩa nhà Phật là đã hết tham sân si.

46

Huyền Quang

Ngọ Thụy
Vũ quá khê sơn tịnh,
Phong lâm nhất mộng lương .
Phản quang trần thế giới,
Khai nhãn túy mang mang .

午 睡
雨過溪山淨
楓林一夢涼
反光(?) 塵世介
開眼醉茫茫

Phỏng dịch nghĩa:

Giấc ngủ trưa
Tạnh mưa khe trong núi nước trong
Rừng phong mát mẽ sau giấc ngủ say (mộng).
Nhìn lại cõi trần này.
Khi bừng mắt tỉnh dậy thấy niềm say man mác.

Giấc trưa
Mưa tạnh trong khe núi nước trong,
Thả hồn giấc mộng mát rừng phong
Từng nhìn ngoảnh lại nơi trần thế,
Bừng mắt tỉnh mà man mác lòng.

phỏng dịch
28.8.2005

--

Huyền Quang, tác giả bài thơ Ngọ Thụy:

Tên đời là Lý Đạo Tái ( 1254 - 1334 )
- lên tu ở núi Yên Tử
- vị tổ thứ 3 của phái Phật Trúc Lâm,
- đạo hiệu Huyền Quang Tôn Giả .
- tác phẩm " Trần triều thế phả hành trạng "

27.7.2005

Dịch thơ chữ Hán là 1 cái thú, qua đó biết được thêm ít chữ mới, trong khi dịch đôi khi phải hiệu đính cho chính xác bản „gốc“ tìm được, ngoài ra biết thêm các điển cố hay tên địa danh.

Thú nhất là càng ngày mình càng nhận ra nhiều chữ hơn trước, và chữ lạ sẽ vơi đi.

Cuối cùng cũng là dịp tìm hiểu các tác giả của thơ chữ Hán, dẫu đó là tác giả người việt hay là thơ Đường.

47
Nguyễn Trãi

Mộ xuân tức sự
Nhàn trung tận nhật bế thư trai,
Môn ngoại toàn vô tục khách lai .
Ðỗ vũ thanh trung xuân hướng lão ,
Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai .


暮春即事
閑中盡日閉書齋
門外全無俗客來
杜宇聲中春向老
一庭疏雨楝花開


Tức cảnh cuối xuân
Nhàn hạ cả ngày đóng cửa phòng văn.
Không có khách tục đến cửa ngoài.
Trong tiếng chim cuốc ( nhắc) là xuân đã muộn ,
Mưa phùn (bay) trong sân, hoa xoan nở.
Chuyển qua chữ hán và dịch nghĩa 26.7.2005

23.7.2005
48
Trương Kế 張 繼
楓 橋 夜 泊

月 落 烏 啼 霜 滿 天。
江 楓 漁 火 對 愁 眠。
姑 蘇 城 外 寒 山 寺。
夜 半 鐘 聲 到客 船。

PHONG KIỀU DẠ BẠC
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên
Giang phong, ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

dịch nghĩa:
Đêm ghé bến Phong kiều.
Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời
Cây phong bên sông, lửa thuyền chài (và) giấc ngủ sầu
Ngoài thành Cô tô (có) chùa Hàn san
Nửa đêm tiếng chuông đến với khách trên thuyền

Đêm ghé bến Phong Kiều
Trăng lặn quạ kêu sương phủ trời,
Cây phong ánh lửa giấc sầu đời,,
Cô Tô ngoài đó Hàn san tự,
Đêm tiếng chuông về viếng khách chơi.
22.7.2005

20.7.2005

49
Trần Mạnh (tức là vua Trần Minh Tôn (1300-1357))

夜雨
秋 氣和燈失曙明
碧蕉窗外遞殘更
自知三十年前錯
肯把閒愁對雨聲

Dạ Vũ
Thu khí hòa đăng thất thự minh
Bích tiêu song ngoại đệ tàn canh
Tự tri tam thập niên tiền thác
Khẳng bả nhàn sầu đối vũ thanh

Mưa đêm
Hơi thu hòa với ánh sáng nhạt sáng sớm.
Chuối xanh ngoài cửa sổ đưa buổi tàn canh
Chính mình biết lỗi lầm ba mươi năm trước
Muốn lấy không gian buồn (nghe) tiếng mưa
Phỏng dịch 20.7.2005


Nhà tho thời Đường Lý thương Ẩn có 1 bài tui biết rất là tuyệt hay, đó là bài Dạ vũ ký bắc.
Nay tìm cách dịch 1 bài khác của lão Lý này: đó là bài Long trì.

50
Lý thương Ẩn

龍 池

龍 池 賜 酒 敞 云 屏 ,
羯 鼓 聲 高 眾 樂 停 。
夜 半 宴 歸 宮 漏 永 ,
薛 王 沉 醉 壽 王 醒 。

Long trì
Long trì tứ tửu sưởng vân bình ,
Yết cổ thanh cao chúng nhạc đình .
Dạ bán yến quy cung lậu vĩnh ,
Tiết vương trầm túy Thọ vương tỉnh.[1]

Long trì
Ở dinh Long trì (vua) ban đãi rượu bình phong,[0]
Thanh của trống Yết làm im các nhạc khác.
Nửa đêm tiệc xong trỡ về khắc lậu rỉ mãi,[1]
Tiết vương say mướt, chỉ Thọ vương còn tỉnh.

Long trì
Long trì đãi rượu khoản vân bình,
Trống Yết trỗi lên nhạc phải đình.
Khắc lậu còn gieo khuya vãn tiệc,
Tiết Vương say mướt Thọ Vương tinh.

tạm phỏng dịch 7.7.2005


Mi, 29.uni 2005

51
Hàn Ốc
韓偓
已涼

碧闌干外繡簾垂,
猩色屏風畫折枝。
八尺龍鬚方錦褥,
已涼天氣未寒時。


Dĩ lương
Bích lan can ngoại tú liêm thùy ,
Tinh sắc bình phong họa chiết chi .
Bát xích long tu phương cẩm nhục ,
Dĩ lương thiên khí vị hàn thời.

Quá lạnh
Lan can màu xanh bên ngoài (có) bức rèm rủ xuống,
Sắc đỏ của tấm bảng che gió có bức họa cành cây cong.
Tám thước râu rồng trên cái đệm gấm hình vuông,
Khí trời quá lạnh khi chưa tới mùa rét.

Hôm nay chủ nhật 19.6.2005 tui có hứng dán thêm 1 bài thơ Đường vừa mới chuyển qua Hán việt xong:

52
Tác giả: Hàn Hồng

韓翃
寒食

春城無處不飛花,
寒食東風御柳斜。
日暮漢宮傳蠟燭,
輕煙散入五侯家。

Hàn thực
Xuân thành vô xứ bất phi hoa,
Hàn thực đông phong ngự liễu tà.
Nhật mộ Hán cung truyền lạp chúc,
Khinh yên tán nhập ngũ hầu gia.

Tết Hàn thực
Trong thành mùa xuân không có nơi nào mà hoa chảng bay,
Tết Hàn-thực gió mùa đông làm cây liễu xiu vẹo.
Trời tối trong cung nhà Hán ra lệnh thắp nến,
Khói nhẹ tan ra đi vào những nhà của các bầy tôi của vua.
19.6.2005

Thứ năm, 16.6.2005
Cái nhẹ nhàng đẹp đẽ của những dòng thơ chữ Hán, được đọc bằng âm hán việt quả đã thu hút tui tham gia dịch nó ra chữ và âm việt.
Ví dụ 1 bài sau đây của nhà thơ Vương xương Linh:
53
Vương xương Linh

王昌齡
春宮曲

未央前殿月輪高。
昨夜風開露井桃,
平陽歌舞新承寵,
簾外春寒賜錦袍。


Xuân cung khúc
Vị ương tiền điện nguyệt luân cao .
Tạc dạ phong khai lộ tỉnh đào ,
Bình dương ca vũ tân thừa sủng ,
Liêm ngoại xuân hàn tứ cẩm bào .

Chun gong qu
wèi yang qián diàn yuè lún gao .
zuó yè feng kai lù jĭng táo ,
píng yáng ge wŭ xin chéng chǒng ,
lián wài chun hán cì jĭn páo .

Khúc mùa xuân trong cung(nhà vua ở)
Đêm qua gió làm nở hoa đào bên giếng Lộ
Trước điện Vị Ương trăng mọc trên cao.
Cô gái ca múa (mới) ở (nhà) Bình dương được nhận ân vua.
Bên ngoài rèm (trời) xuân lạnh (vua) ban cho áo gấm.
phỏng dịch 11.6.2005

Bài ca xuân trong cung
Vị Ương trăng mọc ở trên cao,
Giếng Lộ đêm qua gió thổi đào,
Có cô ca múa nhờ ân sủng,
Bên ngoài xuân lạnh áo bào trao

16.6.2005
phỏng dịch
54
Hạ tri Chương

賀知章
回鄉偶書
少小離家老大回,
鄉音無改鬢毛衰;
兒童相見不相識,
笑問客從何處來。
Hồi hương ngẫu thư
Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
Hương âm vô cải mấn mao thôi,
Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn khách tòng hà xử lai.
Bản Hán-việt: Korrektur 19.6.2005

Về quê
Thuở nhỏ đi xa già mới về,
Tuy đà tóc bạc giọng như quê;
Nhi đồng gặp lão đâu nào biết,
Hỏi hỏi cười cười: Mô tới tề ?
7.4.2005
---
Về Hạ trí Chương:
„..Hạ Tri Chương tự Quý Chân, người quê Vĩnh Hưng thuộc Việt Châu (nay là Hợp Phố tỉnh Quảng Đông) . Ông đỗ Tiến Sĩ đời Vũ Hậu, làm quan đến chức Bí thư giám. Ông hơn Lý Bạch đến hơn bốn chục tuổi nhưng hai người kết bạn rất thân. Hạ Tri Chương giỏi về văn từ, có tài hùng biện, kiến thức uyên bác và trí nhớ đặc biệt , tính tình phóng khoáng , tự phong hiệu là “ Tứ Minh Cuồng Khách” . Ông mất năm 86 tuổi. Thơ văn của ông phần nhiều phục vụ cung đình. Có một số ít bài thơ xuất sắc phải kể đến là hai bài Hồi Hương Ngẫu Thư của Ông sáng tác khi từ quan về quê thăm nhà sau hơn năm mươi năm xa cách . Bài thơ dạt dào tình cảm, đã diễn tả những nỗi niềm chất phát bộc trực từ con tim và đáy lòng của nhà thơ. Ông đã từ giã quê hương ra đi để mưu tìm công danh sự nghiệp vào những năm còn trai trẻ, và qua bao nhiêu thăng trầm dâu bể của cuộc đời, bây giờ tóc đã rụng thưa, phơ phơ sương điểm, nhưng giọng nói quê cũ của ông vẫn chẳng bao giờ đổi thay, đã chứng tỏ tình cảm của ông vẫn luôn còn gắn bó tha thiết với quê hương cố quận, cho dù sống tha phương ngàn trùng xa cách , tận chân trời góc bể nào…“
theo Vương ngọc Long

55
Mãn Giác, 1052-1096

春去百花落
春到 百花開
事逐眼前 過
老從 頭上來
莫謂春殘花落盡
庭前 昨夜一枝梅

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng[1] đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai

Xuân qua trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa nở
Sự việc đưổi trước mắt
Già lão đến trên đầu
Chớ bảo xuân tàn hoa rơi hết
Trên sân đêm qua nở một nhánh mai

22.11.05

--
[1]
có bản viết là tòng

56
Trần Tung

出塵
曾爲物慾役勞軀
擺落塵囂世外遊
撒手那邊超佛祖
一回抖擻一回休

Xuất trần
Tằng vi vật dục dịch lao khu,
Bãi lạc trần hiêu thế ngoại dụ
Tán thủ ná biên siêu Phật tổ,
Nhất hồi đẩu tẩu nhất hồi hưu .


Ra khỏi bụi trần
Nhọc cho thân bởi sự tham lam,
Thoát cái lao xao chốn bụi trần.
Buông bỏ bờ này qua bến Phật,
Một lần phủi giũ ấy lần nhàn.

Thơ phỏng dịch cho vui
12.2.2006

57
Vương Duy

雜詩

君自故鄉來,
應知故鄉事。
來日綺窗前,
寒梅著花未。

Tạp thi

Quân tự cố hương lai
Ưng tri cố hương sự
Lai nhật ỷ song tiền
Hàn mai trước hoa vị

Dịch nghĩa:

Anh từ quê cũ đến,
Hẳn biết chuyện quê nhà,
Có đến trước cửa nơi dệt lụa,
Xem mai hàn đã nở chưa?

Anh từ quê cũ đến đây,
Thế hẳn biết việc quê nhà,
Có ghé trước cửa nơi dệt lụa ấy,
Ðã thấy cành mai hoa nở chưa?

Tháng giêng, BT

58
Nguyển Du
Ký hữu

阮攸
寄友
漠漠塵埃滿太空
閉門高枕臥其中
一天明月交情在
百里鴻山正氣同
眼底浮雲看世事
腰間長劍掛秋風
無言獨對庭前竹
霜雪消時合化龍


Ký Hữu

Mặc mặc trần ai mãn thái không,
Bế môn cao chẩm ngọa kỳ trung.
Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại (1),
Bách lý Hồng Sơn chính khí đồng (2) ,
Nhãn đề phù vân khan thế sự,
Yêu gian trường kiếm quải thu phong.
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc,
Sương tuyết tiêu thì hợp hóa long.

Gởi bạn
Bụi trần mù mịt bay đầy bầu trời,
Đóng cửa nằm trên gối cao ở trong nhà.
Một trời trăng sáng đến giao tình,
Trăm dặm Hồng-Sơn cùng chính khí,
Coi việc đời như mây nổi trong đáy mắt,
Gió thu đùa với kiếm trên lưng.
Không nói một mình đối diện với trúc trước sân,
Sương tuyết tiêu tan thời sẽ hợp thành rồng.

2.11.2007.Si

59
Phạm Quý Thích (1760-1825) 范 貴 適

Thư hoài

書懷
故國山何已大殊
故園松菊半荒蕪
茫茫天地還逋客
擾擾風塵自腐儒
病骨平分秋嶺瘦
臣心仍伴月輪孤
有人勸我杯中趣
為問三閭肯醉無

(皇 越 詩 選) Hoàng Việt Thi Tuyển

Thư hoài
Cố quốc sơn hà dĩ đại thù,
Cố viên tùng cúc bán hoang vu.
Mang mang thiên địa hoàn bô khách,
Nhiễu nhiễu phong trần tự hủ nho.
Bệnh cốt bình phân thu lĩnh sấu,
Thần tâm nhưng bạn nguyệt luân cô.
Hữu nhân khuyến ngã bôi trung thú,
Vị vấn Tam Lư khẳng tuý vô?

Tạm dịch:

Chép về nỗi nhớ
Nước cũ non sông đã hết rồi,
Vườn xưa tùng cúc cũng hoang vu.
Man mác đất trời,đây khách đào vong,
Nhiễu loạn phong trần, ta kẻ hủ nho.
Xương cốt ta, bệnh tương tự như đỉnh núi gầy mòn,
Tâm của ta vẫn còn làm bạn với vầng trăng cô độc.
Có người khuyên ta đến với chén rượu,
Hỏi ông Tam-Lư có từng say rượu không?

--
仍 :(nhưng)
nghia là :còn, vẫn= still

8.11.2007

Dịch thơ:

Nỗi nhớ
Nước cũ non sông đã hết rồi,
Vườn xưa tùng cúc cũng hoang vu.
Man mác đất trời,đào vong khách,
Nhiễu loạn phong trần, kẻ hủ nho.
Xương cốt bệnh ta đỉnh núi gầy,
Tâm còn làm bạn ánh trăng côi.
Ai đã khuyên ta vui chén rượu,
Khuất-Nguyên ông ấy cũng từng say?

9.11.2007


Tim duoc vai giong tren net ve Pham quy Thich:

1.
PHẠM QUÝ THÍCH:
(hiệu: Lập Trai; biệt hiệu: Thảo Đường cư sĩ; 1760 - 1825), nhà thơ Việt Nam. Quê: huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay là huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương); sau ngụ cư phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, Thăng Long (Hà Nội). Đỗ Tiến sĩ, làm quan thời Lê - Trịnh. Khi quân Tây Sơn ra Bắc Hà, ông bỏ trốn, không cộng tác. Đời Gia Long, giữ chức thị trung học sĩ, rồi bị triệu vào kinh chép sử; sau cáo bệnh về. Ông là bạn nhà thơ Nguyễn Du và cho khắc in lần đầu cuốn “Đoạn trường tân thanh” (“Truyện Kiều”) với một bài thơ làm đề từ nổi tiếng. Tác phẩm có: “Thảo Đường thi nguyên tập”, “Lập Trai văn tập”, “Nam hành tập” bằng chữ Hán. Thơ ông phản ánh tâm sự của người hoài Lê; thơ tả cảnh thiên nhiên, cảnh chùa chiền, cũng mang nặng tâm sự ấy. Có một vài bài nói về đời sống khổ cực của nhân dân vì loạn lạc, đói kém, quan lại áp bức.

(trang bachkhoatoanthu)
2)
Tu trang vanhoaphatgiao.

Điều quan trọng của những nhà nghiên cứu là phải căn cứ trên các bản in để xác định đâu là bản in cổ xưa nhất, cũng như xem xét đâu là bản gần với nguyên tác nhất. Hiện nay, bản Kiều cổ xưa nhất là in vào năm 1866. Tuy nhiên, khác với nhiều người, Đào Thái Tôn khẳng định: lúc sinh thời, không có một bản Kiều nào của Nguyễn Du được khắc in. Điều này chống lại ý kiến của những nhà nghiên cứu cho rằng Phạm Quý Thích là người đã khắc in truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhưng ông Đào Thái Tôn cho rằng không phải. “Nguyễn Du viết truyện Kiều xong, thì đưa cho Phạm Quý Thích đọc. Lúc này Phạm Quý Thích ở Thăng Long, làm quan tương đương bộ trưởng bộ giáo dục bây giờ, còn Nguyễn Du là anh học trò chưa đỗ tú tài. Tôi nghĩ Phạm Quý Thích mà để mắt tới quyển truyện Kiều của Nguyễn Du chắc cũng là nhờ Nguyễn Du xuất thân con Nguyễn Nghiễm và là em của Nguyễn Khản – tòan những bậc đại thần trong triều. Và tôi phải khẳng định rằng chính cái việc đưa truyện Kiều cho Phạm Quý Thích là một may mắn cho Nguyễn Du và cũng là cho văn hóa dân tộc Việt Nam. Phạm Quý Thích đọc xong, rất thích, có làm một bài thơ vịnh Kiều, tựa đề là “Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm” chưa biết làm vào năm nào. Cả một đời làm quan của Phạm Quý Thích, tòan bộ thơ văn của ông chủ yếu do học trò tập hợp lại, chưa được khắc in một tập nào. Đến năm 1962, trên bàn thờ từ đường nhà Phạm Quý Thich còn một tập thơ bìa bọc gấm do con cháu ông còn giữ được. Đến thơ của mình còn không in được, mà nói Phạm Quý Thich vì yêu Truyện Kiều đến nỗi đưa ra phố Hàng Gai để khắc in thì không đúng rồi”. Ông Tôn khẳng định như thế.
[www.vanhoaphatgiao.com]

60

Lưu trường Khanh

劉長卿
自夏口至鸚洲夕望岳陽寄源中丞

汀洲無浪復無煙,
楚客相思益渺然。
漢口夕陽斜渡鳥,
洞庭秋水遠連天。
孤城背嶺寒吹角,
獨戍臨江夜泊船。
賈誼上書憂漢室,
長沙謫去古今憐。

Tự hạ khẩu chí anh châu tịch vọng nhạc dương kí nguyên trung thừa

Ðinh châu vô lãng phục vô yên ,
Sở khách tương tư ích miểu nhiên 。
Hán khẩu tịch dương tà độ điểu ,
Ðộng-đình thu thủy viễn liên thiên 。
Cô thành bối lĩnh hàn xuy giác ,
Ðộc thú lâm giang dạ bạc thuyền 。
Giả-Nghị thướng thư ưu hán thất ,
Trường sa trích khứ cổ kim liên 。

Thử dịch nghĩa:

Bãi汀 cù lao洲 không có sóng lại không có khói.
Người khách nước Sở (đoán là chính tác giả) tưởng nhớ về bạn (tương tư) càng xa xăm(渺然).
Chim băng qua mặt trời chiều ở Hán-khẩu,
Nước thu của hồ Ðộng-Ðình dài dặc liền với trời.
Cái thành chơ vơ trên sườn núi, lạnh và (nghe) tiếng giác(tù-và?)thổi,
Ðêm thuyền ghé bến, cô độc một mình ở Lâm-giang,
Giả-Nghị lấy sự nghĩa dâng tờ thư lo về cơ đồ nhà Hán,
Ðã bị đày đi Trường-sa làm thiên hạ xưa nay thương xót.

61
Thôi Hiệu
崔顥
黃鶴樓

昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是?
煙波江上使人愁。


Hoàng hạc lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Lầu Hoàng hạc
Người xưa đã cỡi hạc vàng đi rồi
Ðất ấy chỉ còn lầu Hoàng hạc.
Hạc vàng một khi đã đi không trỡ lại,
Mây trắng ngàn năm chầm chậm bay.
Sông khi mưa tạnh (làm) rõ mồn một những cây cối Hán dương.
Cù lao Anh vũ (có) cỏ thơm mọc tốt tươị
Hoàng hôn về, đâu là quê nhà?
Trên sông khói sóng khiến người buồn.

chuyển qua hán việt và dịch nghĩa 28.7.2005
62
Mạnh hạo Nhiên
春曉
春眠不覺曉,
處處聞啼鳥;
夜來風雨聲,
花落知多少。

Xuân hiểu
Xuân miên bất giác hiểu,
Xứ xứ văn đề điểu.
Dạ lai phong vũ thanh,
Hoa lạc tri đa thiểu.

Buổi sớm mùa xuân
Giấc ngủ (đêm) xuân không biết (trời đà) sáng,
Mọi nơi nghe chim hót;
Ðêm qua tiếng gió mưa,
Biết hoa rơi nhiều hay ít.

29.7.2005


63

Phạm Qúy Thích

Thu vãn
Dạ phong vị đoạn hiểu phong lai,
Mộc diệp tiêu tiêu hạ tiểu trai.
Độc hữu hoàng hoa xuy bất lão,
Đông ly lạn mạn chiếu phù bôi.

Chuyển qua chữ hán:

秋晚
夜風未斷曉風來
木葉蕭蕭下小齋
獨有黄花吹不老
東籬爛熳照浮杯

Dịch nghĩa:

Cuối thu
Gió đêm chưa dứt gió sớm đà đến,
Lá cây ào ào rơi xuống phòng học nhỏ
Có một mình hoa vàng bị gió thổi nhưng chẳng úa tàn,
ở hàng dậu phía đông đang hiện rực rỡ lên chén rựơu tràn đầy.

14.11.2007


Thơ phỏng dịch:

Thu muộn
Gió đêm chẳng dứt lại gió mai,
Ào ào lá đổ trước phòng ai.
Cúc vàng vẫn nở bên hàng dậu,
Rực rỡ hiện lên chén rượu đầy.



64
Phạm Qúy Thích

Chu trung độc tọa

舟中獨坐
江國更初月上船
吹篷風冷不成眠
可堪多病逢佳景
獨對寒燈思渺然

Chu trung độc tọa

Giang quốc canh sơ nguyệt thướng thuyền,
Xuy bồng phong lãnh bất thành miên.
Khả kham đa bệnh phùng giai cảnh,
Độc đối hàn đăng tứ diểu nhiên.

Ngồi một mình trong thuyền.

Sông nước canh sơ trăng lên thuyền,
Gió lạnh thổi buồm thuyền làm giấc ngủ không thành.
Bị bịnh nhiều lại gặp cảnh đẹp,
Một mình đối diện với chiếc đèn lạnh mà suy nghĩ xa xăm.

25.11.2007

Chu trung độc tọa

Trên thuyền trăng mọc buổi về đêm,
Gió lạnh thổi buồm giấc chẳng êm.
Cảnh đẹp bịnh nhiều nên cũng chịu,
Ngắm đèn đối diện nghĩ nhiều thêm.
26.11.2007

65
Phạm Qúy Thich.

坐月感 懷

夜靖村深竹徑風
冰輪一片掛高空
故園故國他鄉客
同在流光遍照中


Tọa nguyệt cảm hoài

Dạ tĩnh thôn thâm trúc kính phong,
Băng luân nhất phiến quải cao không.
Cố viên cố quốc tha hương khách,
Đồng tại lưu quang biến chiếu trung.

Tạm dịch:

Ngồi ngắm trăng mà cảm xúc.

Đêm yên tĩnh, thôn xóm sâu hút, gió lùa vào lối nhỏ nhiều trúc,
Một mảnh trăng sáng treo trên trời cao.
Vườn xưa nước cũ với khách xa quê,
Cùng được chiếu sáng khắp nơi một cách rực rỡ.

28.11.2007.Sieng
Mùa vọng 2007

Cảm Xúc ngắm trăng

Hun hút thôn xa lối trúc êm,
Trên cao lờ lững mãnh trăng đêm.
Sáng soi rực rỡ nơi trần thế,
Cảnh cũ, vườn xưa, khách mới về.

1.12.07. Siêng

--
Cảm xúc nhắm trăng

Yên tĩnh thôn xa lối trúc xưa,
Một mảnh trăng treo cao lửng lờ.
Rực rỡ chiếu soi cùng tất cả,
Vườn xưa, cảnh cũ, khách xa xôi.

--

Cảm Xúc ngắm trăng
Hun hút thôn xa lối trúc êm,
Trên cao lờ lững mãnh trăng đêm.
Sáng soi rực rỡ nơi trần thế,
Nước cũ, vườn xưa, khách nhớ quê.

9.12.2007
66

Lý -Bạch

黃 鶴 樓 送 孟 浩 然 之 廣 陵
故 人 西 辭 黃 鶴 樓
煙 花 三 月 下 揚 州
孤 帆 遠 影 碧 空 盡
惟 見 長 江 天 際 流


Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng-Lăng

Cố nhân tây từ Hoàng-hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương-châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường-giang thiên tế lưu.


Ở Hoàng Hạc Lâu đưa tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng-Lăng

Tại Lầu Hoàng-Hạc người bạn cố tri của tôi đã từ giã miền tây,
Trong tháng ba hoa xuân đang nở rộ để đi xuống Dương-châu.
Hình ảnh xa xăm của cánh buồm cô đơn hiện ở cuối trời xanh biếc,
Nay chỉ còn thấy dòng Trường-giang xuôi chảy tận chân trời.


8.5.2008
--
"Đông du = Đi Nhật
Tây từ : Từ giã miền Tây => sang phía Đông" (trích tnt)

--
67

Vương Duy

王維

九月九日憶山東兄弟

獨在異鄉為異客
每逢佳節倍思親
遙知兄弟登高處
遍插茱萸少一人


Cửu nguyệt cửu nhật ức Sơn đông huynh đệ

Độc tại dị hương vi dị khách,
Mỗi phùng giai tiết bội tư thân.
Dao tri huynh đệ đăng cao xứ,
Biến sáp thù du thiểu nhất nhân.


Dịch nghĩa:
Vương Duy

Ngày chín tháng chín nhớ huynh đệ ở Sơn-đông.

Một mình ở quê người làm người khách la,
Mỗi lần gặp ngày Trùng-cửu thì tôi nghĩ nhiều đến người thân.
Từ xa biết rằng huynh đệ (chắc là) đang lên chổ cao ấy,
Ai ai cũng cắm những cành Thù-Du (lên mình),chỉ thiếu một người (là tôi).

14.Mai 2008


68

Vi Ứng Vật
韋應物

滁州西澗

獨憐幽草澗邊生
上有黃鸝深樹鳴
春潮帶雨晚來急
野渡無人舟自橫


Trừ-Châu Tây-giản
Độc liên u thảo giản biên sanh,
Thượng hữu hoàng li thâm thụ minh.
Xuân triều đái vũ vãn lai cấp,
Dã độ vô nhân chu tự hoành.

Suối Tây-Giản ở Trừ-Châu.
Chỉ thương đám cỏ tĩnh mịch mọc bên bờ suối,
Phía trên có con chim vàng-anh hót trên cây rậm rạp.
Nước triều xuân đem mưa đến, chiều đến vội vã.
Bến đò quê vắng người, duy chỉ có con thuyền nằm (trơ trọi)ở đó.


15.5.2008-05/ Mùa Phật Đản
--
Phần 2
Vài bài thơ tản mạn
1.
Em đi
Em đi tắm biển, ..Kúp anh leo,
Ðể gặp bạn bè cũng ráng trèo.
Biển Ý vi vu cùng nắng gió,
Khi về mở máy được ..ngàn meo.
Samstag, 28. Mai 2005 03:07
2.
Cúp điện
Ngoài song nguyệt sáng chốn cô liêu,
Ám áp đèn soi vẻ mỹ miều.
Bỗng nhận từ quê mail cảnh báo,
Là tin điện "cúp" vẫn còn nhiều.
Mittwoch, 25. Mai 2005 02:50
3.
Hình cũ
Giỡ mấy hình vui xưa cũ xem,
Ngoài song rả rích giọt mưa êm.
Cho rằng bạn hữu thì quen cả,
Bổng hiện dung nhan chẳng biết tên.
Sonntag, 22. Mai 2005 23:32
4.
Quán Cà phê
Cô hàng quán Mộng bán cà phê?
Bác Dzó bi giờ mới nhắc tề!
Nào biết! Em ghiền vài món nhậu,
..Thôi thì năm tới sẽ ..kà phê.
Sonntag, 22. Mai 2005 20:10
5.
Trường Nam Xứ Quảng đã xa rồi,

Banh giấy sân vui, rộn tiếng cười,
Thoăn thoắt trên đường, đôi gót nhỏ,*
Bây giờ xứ lạ dạ bồi hồi.
Freitag, 13. Mai 2005 00:48
6
Hết vui
Chẳng thể vui khi chẳng phải tình,
Em cùng bạn đến quả ..linh tinh.
Chiều xanh bỗng hoá thành chiều tím,
Em lại buồn tênh ..thưở một mình. *
Kỹ niệm thứ hai 6.6.2005

7

Paris
Ô-phố (1) bên đường chỉ cốc bia,
Khuya nay còn ở lại chưa dzìa.
Trời thu gió nhẹ chao cành lá,
Xe vút nghe ầm tiếng máy khuya.

Nhờ bạn KT và các bạn khác có ý thích thì dịch qua hán việt cho vui.

Thanks

--
Ô-phố: Odeon